Kỹ thuật tán sỏi tiết niệu ngoài cơ thể bằng laser và những lưu ý cho người bệnh

Tán sỏi ngoài cơ thể là phương pháp điều trị ngoại khoa sỏi tiết niệu được áp dụng phổ biến và không mất thời gian nằm viện, chủ yếu dành cho những sỏi nhỏ.

Về nguyên tắc, đây là phương pháp gián tiếp nên bên cạnh ưu điểm ít xâm hại, ít đau thì hiệu quả hết sỏi chỉ đạt từ 55 – 85% trong tổng số các trường hợp tán sỏi. Mặc dù đây là biện pháp điều trị khá an toàn, nhưng vẫn có những biến chứng nhất định mà người bệnh cần biết.

Tán sỏi ngoài cơ thể là phương pháp điều trị ngoại khoa sỏi tiết niệu được áp dụng phổ biến và không mất thời gian nằm viện, chủ yếu dành cho những sỏi nhỏ. Ảnh minh họa

Những tổn thương do sỏi tiết niệu gây ra

  • Triệu chứng và biến chứng

Khi sỏi mới hình thành, sỏi chưa gây triệu chứng và các biến chứng, giai đoạn này thường kéo dài khoảng 2 năm. Do triệu chứng rất mờ nhạt, nên người bệnh thường không để ý. Ở giai đoạn này, nếu phát hiện và điều trị nội khoa có hiệu quả đến 80%.

Khi sỏi đã tắc nghẽn không di chuyển, thì đã có triệu chứng và một số biến chứng như giãn đài bể thận, chưa gây biến chứng nặng (có thể hồi phục chức năng thận sau lấy sỏi). Các triệu chứng rõ ràng như đau và tiểu ra máu do sỏi có tắc nghẽn gây ứ niệu, các biến chứng rất nhẹ, nếu phát hiện sẽ áp dụng các phương pháp ít sang chấn can thiệp rất có hiệu quả có lợi cho người bệnh.

Khi sỏi đã gây biến chứng nặng (nhiễm khuẩn, ứ niệu, ứ mủ thận, mất chức năng thận, viêm thận bể thận xơ teo) thì việc xử trí phức tạp hơn và có thể gây suy thận. Mỗi giai đoạn đều có những đặc thù riêng, cần có những thái độ xử trí thích ứng, kịp thời mới mang lại kết quả điều trị tốt nhất với 2 mục đích: loại trừ sỏi ra khỏi đường tiết niệu và các biến chứng của nó; tái lập sự thông thoáng của đường tiết niệu và ngăn ngừa sỏi tái phát.

  • Các tổn thương cơ bản

Sỏi gây tổn thương trên hệ tiết niệu trên theo 3 phương thức cơ bản: phương thức chèn ép tắc nghẽn, phương thức cọ sát cắt cứa, phương thức nhiễm khuẩn.

– Phương thức tắc nghẽn là phương thức tác động phổ biến nhất, nguy hiểm nhất tới hình thể và chức năng của thận. Khi sỏi ở những vị trí dễ gây ứ tắc (bể thận, niệu quản), tuỳ theo kích thước và hình thể sỏi có thể gây nên ứ tắc hoàn toàn hay không hoàn toàn, cấp tính hay mãn tính và gây tăng áp lực phía trên sỏi. Nếu tắc đột ngột hoàn toàn, áp lực xoang thận tăng cao, làm tăng áp lực thuỷ tĩnh ở bao Bowmann, do đó làm triệt tiêu áp lực lọc và thận sẽ ngừng bài tiết. Nếu tắc nghẽn xảy ra không hoàn toàn và mãn tính, áp lực xoang thận tăng lên từ từ làm dãn dần xoang thận, nhu mô thận mỏng dần, dung tích đài bể thận tăng lên đến hàng trăm thậm chí hàng ngàn mililit.

– Phương thức cọ sát, cắt cứa. Sỏi tiết niệu, nhất là sỏi cứng, gai góc (sỏi oxalat, sỏi urat) có thể cọ sát, cứa rạch vào tổ chức thận niệu quản gây chảy máu kéo dài trong hệ tiết niệu. Thương tổn tổ chức một mặt tạo điều kiện cho nhiễm khuẩn niệu phát triển, mặt khác sẽ khởi động cho quá trình phát triển xơ hoá ở nhu mô thận và ở thành ống dẫn niệu

– Phương thức nhiễm khuẩn. Sự tắc nghẽn và các tổn thương tổ chức trên hệ tiết niệu là những yếu tố thuận lợi để phát triển nhiễm khuẩn niệu. Nhiễm khuẩn niệu gây phù nề, chợt loét sâu sắc hơn, đẩy nhanh quá trình xơ hoá, hoại tử tổ chức thận và thành ống dẫn niệu. Kết cục cũng dẫn đến tổn thương chức năng và hình thể thận và niệu quản.

Tán sỏi tiết niệu ngoài cơ thể được thực hiện như thế nào?

Dưới gây mê toàn thân hoặc tiền mê giảm đau, bệnh nhân được nằm trên máy tán sỏi. Trung bình mỗi liệu trình điều trị thường sử dụng không quá 3000 nhịp sóng xung kích để bảo đảm an toàn tối đa cho nhu mô thận nhưng đồng thời vẫn tán vỡ được sỏi.

Trong quá trình tán, sỏi luôn di động theo nhịp thở, do vậy nếu không giữ được nhịp thở sâu và đều thì số lần sóng xung kích bắn trượt sẽ tăng lên kéo theo hiệu quả vỡ sỏi giảm đi.

Tán sỏi ngoài cơ thể dùng để chữa bệnh sỏi thận sử dụng sóng xung kích hội tụ vào viên sỏi để tán vỡ nó. Như vậy hiệu quả phụ thuộc vào công xuất máy và độ rắn của viên sỏi. Sau khi được tán vỡ, các mảnh sỏi phải tự đào thải ra ngoài theo nước tiểu và như vậy, hiệu quả lại phụ thuộc vào sự thông suốt của đường tiết niệu; kích thước các mảnh sỏi đã được tán vỡ phải lọt qua được lòng niệu quản và thận phải còn có khả năng tiết ra nước tiểu.

Lựa chọn chỉ định trong tán sỏi tiết niệu ngoài cơ thể

Không đơn thuần chỉ là có máy tán sỏi ngoài cơ thể mà chỉ định tán sỏi ảnh hưởng lớn đến kết quả và tránh được các biến chứng. Một chỉ định đúng đắn phải dựa trên sự phân tích tổng hợp các yếu tố thông qua xét nghiệm; chẩn đoán hình ảnh về kích thước, độ rắn, vị trí của sỏi; sự thông suốt của đường tiết niệu cũng như các bất thường giải phẫu; chỉ số cơ thể; chức năng thận; tình trạng nhiễm trùng tiết niệu… Tuyệt đối không được lạm dụng mở rộng chỉ định tán sỏi ngoài cơ thể để tránh những biến chứng đáng tiếc xảy ra.

Tán sỏi tiết niệu cần đồng bộ các kỹ thuật cao

Khả năng thực hiện đồng bộ các kỹ thuật cao như nội soi sỏi thận qua da chuẩn thức, nội soi thận qua da tối thiểu, nội soi sỏi niệu quản, đặt sonde JJ giúp bảo đảm an toàn tuyệt đối cho bệnh nhân nếu khi tán sỏi ngoài cơ thể không may gặp sự cố. Ngay cả khi đã có chỉ định đúng, tán sỏi ngoài cơ thể cũng có thể gặp biến chứng tắc niệu quản thậm chí rất nhiều mảnh sỏi gây tắc nghẽn trên một đoàn dài của niệu quản, cơn đau quặn thận,tụ máu quanh thận… Hoặc những bất thường như sỏi không vỡ hoặc đã vỡ mà vẫn đọng lại. Trong trường hợp đó, các phương pháp nội soi niệu quản, nội soi thận qua da tối thiểu hay đặt sonde JJ sẽ là cứu cánh hữu hiệu.

Tán sỏi ngoài cơ thể dùng để chữa bệnh sỏi thận sử dụng sóng xung kích hội tụ vào viên sỏi để tán vỡ. Ảnh minh họa

Lời khuyên của bác sĩ

Sau tán sỏi, bệnh nhân có thể đau nhẹ vùng lưng và đái máu thoáng qua, thường không cần phải dùng thuốc. Bệnh nhân cần ăn nhẹ, uống 2-3l nước mỗi ngày. Các mảnh sỏi sẽ được đào thải qua nước tiểu. Việc đánh giá hiệu quả tán sỏi chỉ thực sự rõ ràng qua phim chụp kiểm tra sau 1 tháng. Nếu có sốt hoặc cơn đau quặn thận hay các biểu hiện bất thường khác cần được khám chuyên khoa tiết niệu ngay.

Chăm sóc sau mổ: Bệnh nhân nên nằm tại giường, không nên ngồi dậy để tránh đau đầu do tác dụng phụ của thuốc gây tê tủy sống. Bệnh nhân có thể ra viện ngay sau tán, nhưng nên nằm viện 1 – 2 ngày để theo dõi. Ngoài ra cần uống thuốc theo đúng chỉ định của bác sĩ. Bao gồm các thuốc kháng sinh, thuốc giảm co thắt, thuốc giảm đau. Tái khám đúng hẹn

Theo suckhoedoisong.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *